Yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết cá nhân
Xác định chữ ký thật hay giả thông qua yêu cầu giám định chữ viết, chữ ký của cá nhân là việc làm cần thiết trong giải quyết tranh chấp dân sự, đất đai đối với cá nhân, hộ gia đình. Vậy, bạn tự đi giám định chữ viết, chữ ký thì kết quả có giá trị không?
Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ thì việc giám định chữ viết, chữ ký được thực hiện dựa trên cơ sở khoa học, nghiệp vụ chuyên ngành và máy móc nên tính chính xác là rất cao. Kết quả giám định có thể xác định rõ mẫu so sánh và mẫu giám định có cùng một người viết, ký không, nhưng cũng có thể không xác định được hai mẫu có phải cùng người viết, ký hay không.
Trước khi bàn đền kết luận giám định thì bạn cần hiểu rõ quy định pháp luật trong việc: Quyền yêu cầu giám định, giá trị chứng cứ của kết luận giám định trong công việc mà bạn thực hiện.
Ví dụ: Bạn lo lắng giấy vay tiền viết tay không giá giá trị nên thực hiện việc giám định chữ ký của Bên vay. Tuy vậy khi khởi kiện Tòa án lại không chấp nhận Kết luận giám định là chứng cứ bởi thủ tục trưng cầu giám định không đúng quy trình tố tụng theo Điều 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
“Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.”
Trưng cầu giám định là một trong các biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ theo Điều 97 bao gồm hai trường hợp tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
- Theo yêu cầu của đương sự và nếu thấy chứng cứ bị tố cáo là giả mạo thì nếu người đưa ra chứng cứ không rút lại thì người tố cáo có quyền hoặc Toà án có quyền quyết định trưng cầu giám định.
- Nếu Toà án từ chối yêu cầu giám định của đương sự thì các đương sự có thể tự mình yêu cầu giám định. Việc tự giám định phải được thực hiện trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.
“Điều 102. Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định
1. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
2. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
3. Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám định, triệu tập người giám định đến phiên tòa, phiên họp để trực tiếp trình bày về các nội dung cần thiết.
4. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó.
5. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định tư pháp.”
Thực tế, khi yêu cầu Giám định chữ viết, chữ ký cá nhân thì thời gian và chi phí giám định sẽ khác nhau, phụ thuộc vào cơ quan được Tòa án yêu cầu giám định. Hồ sơ đề nghị Tòa án Giám định chữ viết, chữ ký gồm:
- Đơn yêu cầu trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết.
- Đơn yêu cầu thu thập mẫu so sánh và mẫu cần giám định (nếu trong hồ sơ vụ tranh chấp không có sẵn).
- Tạm ứng chi phí giám định cho Tòa án.
Luật giám định tư pháp quy định về kết luận giám định như sau:
“Điều 32. Kết luận giám định tư pháp
1. Kết luận giám định tư pháp là nhận xét, đánh giá bằng văn bản của người giám định tư pháp về đối tượng giám định theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định. Kết luận giám định tư pháp phải có các nội dung sau đây:
a) Họ, tên người thực hiện giám định; tổ chức thực hiện giám định;
b) Tên cơ quan tiến hành tố tụng; họ, tên người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định; số văn bản trưng cầu giám định hoặc họ, tên người yêu cầu giám định;
c) Thông tin xác định đối tượng giám định;
d) Thời gian nhận văn bản trưng cầu, yêu cầu giám định;
đ) Nội dung yêu cầu giám định;
e) Phương pháp thực hiện giám định;
g) Kết luận về đối tượng giám định;
h) Thời gian, địa điểm thực hiện, hoàn thành việc giám định.
2. Trong trường hợp trưng cầu, yêu cầu cá nhân thực hiện giám định thì chữ ký của người thực hiện giám định phải được chứng thực theo quy định của pháp luật về chứng thực.
Trường hợp trưng cầu, yêu cầu tổ chức thực hiện giám định thì người đứng đầu tổ chức phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định và tổ chức được trưng cầu, yêu cầu chịu trách nhiệm về kết luận giám định.
Trường hợp Hội đồng giám định quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật này thực hiện giám định thì người quyết định thành lập Hội đồng phải ký tên, đóng dấu vào bản kết luận giám định và chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của Hội đồng giám định.
3. Trong trường hợp việc giám định được thực hiện trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, theo đúng trình tự, thủ tục do Luật này quy định thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể sử dụng kết luận giám định đó như kết luận giám định tư pháp.”
Và như Luật Trí Nam đã trình bày ở phần đầu, kết luận giám định có được coi là chứng cứ chứng minh trong vụ tranh chấp hay không còn phụ thuộc vào quan điểm của Hội đồng xét xử và các đương sự. Đương nhiên bên bị bất lợi bởi kết luận giám định sẽ tìm cách bác bỏ giá trị của nó.