Thời điểm xác định giao dịch dân sự vô hiệu

Ví dụ: Cty A và Cty B ký hợp đồng thuê xưởng. Cty B là bên thuê xưởng và xác định hợp đồng thuê xưởng vô hiệu do phát hiện Cty A làm giả sổ đỏ để thuyết phục bên B ký hợp đồng thuê. Khi đó thời điểm xác định hợp đồng vô hiệu sẽ là thời điểm Cty B được đòi lại số tiền đã thanh toán cho Cty A.

Theo Luật Trí Nam quy định về “Thời điểm xác định giao dịch dân sự vô hiệu” rất quan trọng bởi xác định giao dịch dân sự vô hiệu  không phải là dựa trên cảm nhận hay lý luận của một bên mà nó phải được xác lập thông qua quyết định, bản án của cơ quan tài phán như Tòa án.

“Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:

a) Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;

b) Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;

c) Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;

d) Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;

đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.

3. Đối với giao dịch dân sự quy định tại Điều 123 và Điều 124 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.”

(Điều 132 Bộ luật dân sự 2015)

Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu bao gồm:

  • Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm năng lực chủ thể

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật dân sự 2015). Năng lực hành vi dân sự là khả năng nhận thức hành vi, làm chủ hành vi của họ khi tham gia giao dịch dân sự. Năng lực hành vi của mỗi cá nhân lại phụ thuộc vào độ trưởng thành về thể chất và nhận thức của mỗi cá nhân.

Theo Khoản 2, Điều 20 Bộ luật dân sự 2015, người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) là người có khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của mình một cách đầy đủ, có quyền tham gia độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện trong các quan hệ pháp luật dân sự. Ngược lại, người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) là những người có năng lực hành vi dân sự một phần và chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Trong đó, người có đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi tham gia các giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi, người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi được tự mình tham gia các giao dịch dân sự không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và các giao dịch khác pháp luật yêu cầu cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

Cụ thể vấn đề này, Điều 125 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau: Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.

Như vậy, các chủ thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những chủ thể không đáp ứng được yêu cầu về năng lực hành vi dân sự khi tham gia giao kết hợp đồng. Do đó, giao dịch dân sự do các đối tượng trên xác lập sẽ có thể rơi vào một trong hai trường hợp:

  1. Một là, giao dịch dân sự vô hiệu khi người đại diện của người đó có yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu khi hợp đồng đó buộc phải có sự đồng ý của người đại diện khi họ xác lập, thực hiện thì Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu. Tuy nhiên, nếu người đại diện của những người này đồng ý, hợp đồng vẫn có hiệu lực.
  2. Hai là, hợp đồng vẫn còn giá trị pháp lý nếu không thuộc trường hợp bắt buộc phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện.
  • Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí của chủ thể

Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

Theo Bộ luật dân sự 2015 thì những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự sẽ được quyền tham gia giao kết giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể độc lập, tự chịu trách nhiệm về những hành vi do mình thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế một vài trường hợp tại một thời điểm nào đó, người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lại không thể nhận thức và điều khiển được hành vi của chính họ.

Ví dụ: Người đang có giấy chứng nhận tâm thần mà ký hợp đồng thì không đáp ứng được điều kiện tự do ý chí.

Thứ hai, giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn

Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 126 Bộ luật dân sự 2015).

Sự nhầm lần này có thể xuất phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc. Bên có lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn thì phải bồi thường.

Thứ ba, giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo

“Khi các bên xác lập giao xác lập giao dịch dân sự một các giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn còn hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan (Điều 124 Bộ luật dân sự 2015).

Có thể hiểu giao dịch dân sự do giả tạo là giao dịch dân sự được xác lập hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng, nhưng sự bày tỏ ý chí bên trong với sự thể hiện ý chí ra bên ngoài của các bên lại không thống nhất dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu.

Thứ tư, giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa

“Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch dân sự đó (Điều 127 Bộ luật dân sự 2015).

Khi giao dịch có yếu tố lừa dối, bên bị lừa dối không cần phải chứng minh điều kiện nào khác, mà có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Theo Điều 127 Bộ luật dân sự 2015: “Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.”

  • Giao dịch dân sự vô hiệu do mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu (Điều 123 Bộ luật dân sự 2015).

Như vậy, về nguyên tắc, trong bất kể trường hợp nào, giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Thông thường, những thoả thuận hợp đồng phù hợp với đạo đức xã hội thì cũng được pháp luật công nhận, bảo vệ và ngược lại những thoả thuận trái với đạo đức xã hội sẽ bị pháp luật ngăn cấm. Tuy nhiên, trên thực tế pháp luật không thể dự liệu hết mọi trường hợp có thể xảy ra điều chỉnh. Do đó, có thể có những thoả thuận trong giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng mục đích và nội dung trái với những chuẩn mực đạo đức chung, trái với truyền thống tương thân tương ái của dân tộc thì cũng đều vô hiệu

  • Giao dịch, hợp đồng vi phạm điều kiện bắt buộc về hình thức của hợp đồng.

Điều 177 Bộ luật dân sự 2015 ghi nhận hình thức là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Khoản 2, Điều 119 Bộ luật dân sự 2015 cũng quy định về hình thức giao dịch dân sự với nội dung: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”

Như vậy, có thể thấy về nguyên tắc hình thức không phải là điều kiện bắt buộc để cho hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Tức là hợp đồng chỉ bị tuyên vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức nếu trong Bộ luật Dân sự hoặc luật khác quy định cụ thể về hình thức xác lập hợp đồng đó.

Ví dụ: Hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực theo Điều 167 Luật Đất đai.

  • Giao dịch dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được

Trong trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu (Khoản 1, Điều 408 Bộ luật dân sự 2015).

Đối tượng của hợp đồng có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện. Là tài sản thì tài sản đó phải có thực, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật chấp nhận đối tượng của hợp đồng là vật chưa có trong hiện tại nhưng chắc chắn sẽ có trong tương lai (tài sản hình thành trong tương lai). Đối tượng là công việc thì công việc phải thực hiện được.

Đối tượng của hợp đồng không thực hiện được vì lý do khách quan có thể thuộc một trong các trường hợp: Đối tượng hợp đồng bị pháp luật cấm, trái đạo đức xã hội hoặc không có thực vượt quá khả năng thực tế của con người đặt ra trong một điều kiện hoàn cảnh nhất định. Trong trường hợp một bên biết hoặc phải biết về đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại nếu có, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng đó có đối tượng không thể thực hiện được.

Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

  1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
  2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
  3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
  4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
  5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

(Điều 131 Bộ luật dân sự 2015)

Trên đây là quy định về giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015. Hy vọng các chia sẻ sẽ hữu ích cho Quý khách hàng trong việc tham khảo và áp dụng pháp luật trong thực tiễn.

Tham khảo

+ Dịch vụ soạn thảo hợp đồng

+ Dịch vụ luật sư uy tín